NGHIÊN CỨU TỶ LỆ CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ THÚC ĐẨY HÀNH VI PHẠM TỘI Ở BỆNH NHÂN TÂM THẦN GIÁM ĐỊNH NỘI TRÚ
BSCKII. Ngô Đình Thư*, ThS.BS. Tôn Thất Hưng*,
BSCKI. Nguyễn Ngọc Thượt*, BSCKI. Hoàng Thị Anh Đào*,
CNĐD. Nguyễn Khoa Thanh Sơn*, BSCKI. Nguyễn thị Thanh Nở**,
( Bệnh viện Tâm thần Huế*,Sở Y tế Thừa Thiên Huế**)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Người bệnh tâm thần hay có những hành vi gây hại cho bản thân và cho người khác, làm mất trật tự an toàn xã hội nhiều khi đến mức tội phạm hình sự. Tuy ngày nay chuyên ngành tâm thần đã có nhiều tiến bộ trong quản lý và điều trị nhưng các hành vi nguy hiểm do người mắc bệnh tâm thần gây ra cho xã hội vẫn còn chiếm tỷ lệ cao.
Ở nước ta Trần Văn Cường (1992) nhận thấy trong giám định pháp y tâm thần gặp nhiều thể bệnh và hậu quả do họ gây ra rất nghiêm trọng. Giám định pháp y tâm thần thực chất là giúp cho cơ quan pháp luật xét xử đúng người đúng tội, đặc biệt trong loại trừ giả bệnh tâm thần. Nghiên cứu của Nguyễn Đăng Đức, Nguyễn Cửu Dỵ nhận thấy trong 968 hồ sơ giám định có 658 trường hợp có mắc bệnh tâm thần.
Nghiên cứu của Gunn J. và Taylor D.C.(1984) trên 1.241 tù nhân thấy tỷ lệ bệnh nhân tâm thần phân liệt bị kết tội giết người cao hơn tỷ lệ bệnh nhân tâm thần phân liệt trong cộng đồng. Hai tác giả này còn thấy có nhiều thể bệnh tâm thần khác nhau trong các tù nhân và có sự khác biệt rõ nét giữa nam và nữ.
Phân tích 49 trường hợp có hành vi phạm tội hình sự đã được giám định pháp y tâm thần tại Bệnh viện Tâm thần Huế nhằm góp phần tìm hiểu loại bệnh nào hay gặp, nguyên nhân, yếu tố thúc đẩy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tỷ lệ các bệnh tâm thần và một số yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội trong giám định pháp y tâm thần tại Bệnh viện Tâm thần Huế trong 03 năm (2008 – 2010)” nhằm các mục tiêu sau:
1. Nghiên cứu tỷ lệ các rối loạn tâm thần gặp trong giám định pháp y tâm thần.
2. Nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở các đối tượng trong nhóm nghiên cứu.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
A. Địa điểm và đối tượng nghiên cứu:
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 49 hồ sơ bệnh án của các đối tượng phạm tội hình sự, nghi ngờ bị bệnh tâm thần tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền trung ( Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, …) đã được cơ quan pháp luật trưng cầu giám định pháp y tâm thần (GĐPYTT) nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Huế từ cuối năm 2008 đến tháng 09/2010.
B. Phương pháp tiến hành:
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu trên các tư liệu hồ sơ trưng cầu giám định pháp y tâm thần của các cơ quan chức năng, biên bản ghi lời khai của đối tượng, nhân chứng, bị hại, gia đình,…); Bệnh án thăm khám theo dõi và kết luận của Hội đồng giám định pháp y;
Sử dụng mẫu bệnh án thu thập thông tin nghiên cứu các yếu tố chung về lâm sàng và cận lâm sàng. Nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội qua các thông tin về bệnh tật, các thông tin về tội phạm do cơ quan pháp luật cung cấp mà hồ sơ ghi lại.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
A. Phân tích các số liệu chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng1. Các bệnh tâm thần gặp trong giám định pháp y tâm thần
Qua bảng 1 chúng tôi thấy xuất hiện ở 6 thể bệnh trong đó 3 nhóm bệnh tâm thần phân liệt, động kinh, chậm phát triển tâm thần chiếm tỷ lệ cao nhất 75,6% và nhóm thấp là không có bệnh tâm thần (giả bệnh) có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh và các nhóm bệnh khác
Bảng 2. Phân bố giới tính của nhóm nghiên cứu
Bảng 2 cho thấy số bệnh nhân trong các nhóm bệnh chủ yếu là nam giới (98%) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P< 0,001).
Ngay trong quản lý điều trị tại cộng đồng nam giới có hành vi bạo lực cao hơn nữ giới: Cao Tiến Đức (1997) cho thấy tỷ lệ nam giới chiếm 92,1%, nữ giới chỉ chiếm có 7,84% [7]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Vân (2003) cũng cho kết quả tương tự, nam giới chiếm 80,02%, nữ giới chiếm 19,98% [18].
Bảng 3. Phân bố bệnh nhân GĐPYTT theo tuổi
Bảng trên cho thấy nhóm tuổi bệnh nhân gặp trong GĐPYTT chủ yếu là độ tuổi 20 - 39 (36/49) chiếm 75,5% tiếp đến là nhóm tuổi 40- 49 chiếm 10,2% và nhóm < 20 chiếm 10,2 sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hai nhóm tuổi này so với các nhóm tuổi khác (P <0,01).
Bảng 4. Phân bố đối tựơng theo nghề nghiệp
Kết quả bảng trên cho thấy không có sự khác nhau về không nghề và có nghề nghiệp. Nghề nghiệp chủ yếu là nghề tự do (lao động làm thuê, xe thồ…) 31%, làm ruộng 10,2%, không nghề 55%. Kết quả của chúng tôi không có sự khác biệt so với kết quả của Trần Văn Cường (1996) và của Đường Khắc Tám (1995).
Bảng 5. Phân bố đối tượng theo trình đội văn hoá.
Bảng trên cho thấy trình độ học vấn chủ yếu là cấp tiểu học và trung học cơ sở chiếm tỷ lệ 57,1%, trình độ phổ thông trung học chiếm 18,4%, có 20,4% đối tượng không biết chữ. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ( P < 0,01).
B. Các yếu tố thúc đẩy và hình thức phạm tội.
Bảng 6. Yếu tố bệnh lý và yếu tố ngoại lai thúc đẩy phạm tội
Bảng 6 cho thấy yếu tố chi phối hành vi phạm tội cao nhất là bệnh lý 53,1%; xã hội tác động là 18,4%; gia đình là 14,3%, do rượu chi phối là 6,1%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố bệnh lý và các yếu tố ngoại lai ( p < 0,001).
So sánh nghiên cứu của Dương Văn Lương cho thấy yếu tố chi phối hành vi phạm tội cao nhất là bệnh lý 52,2%; xã hội tác động là 18,1%; gia đình là 10,9% do rượu chi phối là 8,2%.
Bảng 7. Đặc điểm giai đoạn bệnh ở thời điểm phạm tội
Bảng 7 cho thấy ở nhóm nghiên cứu người mắc bệnh trước khi gây án hành vi phạm tội chiếm tỷ lệ cao so với người mắc bệnh sau gây án và không mắc bệnh (p <0,001). Nhóm gây án giai đoạn bệnh tiến triển cao ( 77,6% ) so với nhóm mắc bệnh giai đoạn bệnh ổn định 10,2 ( p< 0,01).
Các nghiên cứu nhận thấy ở bệnh nhân TTPL và ĐK có tình trạng bỏ thuốc rất cao hoặc không uống thuốc đều sẽ dẫn đến tái phát bệnh và phát sinh các hành vi gây hại, đây là biểu hiện đầu tiên mà người xung quanh cảm nhận được [6].
IV. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 49 đối tượng đã được giám định pháp y tâm thần tại bệnh viện Tâm thần Huế trong 3 năm ( 2008 – 2010) bằng phương pháp phân tích hồi cứu, chúng tôi đi đến kết luận sau :
1. Cơ cấu bệnh tâm thần gặp trong giám định pháp y tâm thần trong 2 năm (2008 – 2010 ):
- Tỷ lệ bệnh tâm thần gặp trong giám định pháp y tâm thần là 87,8% tỷ lệ giả bệnh tâm thần là 12,2% (P < 0,001)
- Gặp 6 nhóm bệnh tâm thần: trong đó 3 nhóm bệnh tâm thần phân liệt, động kinh và chậm phát triển tâm thần chiếm phần lớn ( 75,6% ), trong đó số bệnh nhân không bị bệnh 6 ( 12,2% )
- Bệnh nhân nam nhiều hơn bệnh nhân nữ tỷ lệ 48/1 (98% nam)
2. Các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội
- Do nhân tố bệnh lý tâm thần chi phối chiếm 53,1%,
- Các yếu tố gia đình chiếm 14,3%. Yếu tố xã hội chiếm 18,4%
- Các yếu tố khác chiếm 8,2%
- Phạm tội trong giai đoạn bệnh tiến triển là 77,6% BN, trong giai đoạn bệnh ổn định là 10% BN.
V. KIẾN NGHỊ:
- Đẩy mạnh công tác xã hội hóa chương trình nhằm huy động có hiệu quả toàn cộng đồng tham gia quản lý, chăm sóc bệnh nhân. Tăng cường truyền thông giáo dục để người dân hiểu rõ về bệnh tâm thần và biết cách phòng tránh, hợp tác trong điều trị.
- Đẩy mạnh tập huấn, đào tạo cho cán bộ y tế địa phương, cộng tác viên, tổ GĐBN và đáp ứng đủ kinh phí mua thuốc để điều trị củng cố, chống bệnh tái phát và có thể xử lý tại cộng đồng khi bệnh mới phát và tái cơn kịp thời ngăn chặn những hành vi gây nguy hại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Cường. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và các nhân tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở bệnh nhân TTPL trong giám định pháp y tâm thần, Nội san tâm thần học, Hà Nội,1998, số 1, trang 24 – 32
2. Trần Văn Cường : Nhận xét kết quả giám định 1970- 1980 . Nội sau Tâm thần số đặc biệt chào mừng hội nghị ngành lần thứ tư Hà Nội- 1986 , 16-23
3. Trần Văn Cường, Nguyễn Đăng Dung : Nghiên cứu hình thái phạm tội trên một số trường hợp bị bệnh Tâm thần gặp trong Giám định Pháp y Tâm Thần. Nội sau Bệnh viện Tâm thần Trung ương số 1- 1996, 9 – 12
4. Nguyễn Đăng Dung : Pháp y Tâm thần - Tập san Tâm thần 1993, 52- 61
5. Nguyễn Đăng Dung : Quản lý và điều trị Bệnh Tâm thần có hành vi nguy hiểm cho xã hội, nội sau Tâm thần 1989, 162- 166
6. Bùi Quang Huy, Tâm thần phân liệt, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, 2009.
7. Đào Trần Thái (2005). “Xử trí bệnh nhân tâm thần tự sát”. Tâm thần học. Bộ môn Tâm thần, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh: trang 253-256.
8. Brinded PM, Simpson AI, Laidlaw TM, Fairley N, Malcolmf. Prevalence of psychiatric disorders in new zealand prisons: a national study. Academic unit of Forenne Psychintry, Department of psychological medicine Christ church Scholl of medicine Po box 4345, chriptchurch, new zealand phil Brinded @ Health link south. Co. nz
9. Wood ward M, Nursten J, williams P. Badger Mental disorder and homicide : are of epidemiological reseach Epidemiol psychiatry social. 2000 Jul – sep ; 9 (3) : 171
10. NiveauG: Crimial responsibility and canabisuse: psychiatrie review and propose gruidelines. Geneva university in stitute of porensic Medicine switzerland Gerard nivean @ hcuge. Ch. I porensie sci. 2002 May 47 (3) : 451- 8