Tìm kiếm
-
-

Bạn đánh giá webssite của bệnh viện như thế nào?
Sử dụng thuốc trong tâm thần phân liệt
Ngày cập nhật 25/09/2015

     Trong tâm thần phân liệt, thuốc chống loạn thần được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị rối loạn tâm thần cấp tính và làm giảm nguy cơ loạn thần tái phát trong tương lai. Như vậy việc điều trị tâm thần phân liệt, có hai giai đoạn chính: giai đoạn cấp tính, khi dùng liều cao hơn có thể là cần thiết để điều trị các triệu chứng tâm thần, theo sau là giai đoạn duy trì, mà thường là suốt đời. Trong giai đoạn duy trì, liều lượng thường giảm dần đến mức tối thiểu cần thiết để ngăn chặn sự tái phát và kiểm soát tiến triển các triệu chứng. Nếu các triệu chứng xuất hiện trở lại hoặc xấu đi với một liều điều trị thấp, tăng liều có thể cần thiết để giúp ngăn ngừa tái phát tốt hơn.

Ngay cả với việc duy trì điều trị, một số bệnh nhân vẫn tái phát. Nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh tái phát là dừng thuốc.

Phần lớn những bệnh nhân tâm thần phân liệt cải thiện tốt hơn khi điều trị bằng thuốc chống loạn thần. Tuy nhiên một số bệnh nhân, không đáp ứng với thuốc, và một số ít có thể dường như không cần đến chúng.

Rất khó để dự đoán bệnh nhân sẽ rơi vào nhóm nào, nên điều cần thiết là có sự theo dõi lâu dài, do đó việc điều trị có thể được điều chỉnh và giải quyết các vấn đề nảy sinh kịp thời.

Thuốc chống loạn thần là nền tảng trong việc quản lý của tâm thần phân liệt. Chúng đã có từ giữa những năm 1950, và mặc dù thuốc chống loạn thần không chữa khỏi bệnh hoàn toàn, chúng làm giảm đáng kể các triệu chứng và cho phép bệnh nhân hoạt động tốt hơn, có chất lượng cuộc sống tốt hơn, và tận hưởng một triển vọng hoàn hảo hơn. Sự lựa chọn và liều lượng của thuốc là cá biệt và tốt nhất là thực hiện bởi một bác sĩ được đào tạo tốt và có kinh nghiệm trong việc điều trị bệnh tâm thần nặng.

Các thuốc chống loạn thần đầu tiên được phát hiện một cách tình cờ và sau đó được sử dụng cho tâm thần phân liệt. Đó là chlorpromazine (thorazine), mà không lâu sau là các thuốc như fluphenazine (Prolixin), haloperidol (Haldol), loxapine (Loxapine), perphenazine (Trilafon), thioridazine (Mellaril), thiothixen (navane) và trifluoperazine (Stelazine). Những loại thuốc này đã trở nên nổi tiếng như là "thuốc an thần kinh" (có nghĩa là, "chiếm lấy tế bào thần kinh") bởi vì, mặc dù hiệu quả trong việc điều trị các triệu chứng dương tính (các triệu chứng cấp tính như ảo giác, hoang tưởng, rối loạn suy nghĩ, các liên tưởng mơ hồ, sự mâu thuẫn, hoặc rối loạn cảm xúc), trong số các tác dụng phụ, chúng có thể gây ra nhận thức chậm chạp và cử động vô thức. Các loại thuốc cổ điển này cũng không hiệu quả chống lại cái gọi là triệu chứng âm tính như sự thờ ơ, giảm động lực, và thiếu biểu hiện cảm xúc.

Trong năm 1989, một thế hệ mới của thuốc chống loạn thần - được gọi là thuốc chống loạn thần không điển hình hay thế hệ thứ hai - đã được giới thiệu. Ở liều hiệu quả, thấp hơn là những tác dụng phụ về thần kinh - mà thường bao gồm các triệu chứng như co cứng cơ, co thắt gây đau đớn, bồn chồn, hay run giật- được nhìn thấy.

Thuốc đầu tiên của thế hệ mới, clozapine (Clozaril) là loại thuốc duy nhất được chứng minh là có hiệu quả mà thuốc chống loạn thần khác đã thất bại. Nó không liên quan với tác dụng phụ nói trên, nhưng nó cũng nảy sinh tác dụng phụ khác, bao gồm tăng cân, thay đổi đường huyết và cholesterol, và giảm số lượng tế bào bạch cầu chống nhiễm trùng. Công thức máu cần phải được theo dõi mỗi tuần trong sáu tháng đầu điều trị và sau đó hai tuần một lần và cuối cùng mỗi tháng một lần vô thời hạn để giám sát tác dụng phụ này nếu nó xảy ra.

Thuốc chống loạn thần không điển hình khác bao gồm: aripiprazole (Abilify), asenapine (Saphris), lurasidone (Latuda), paliperidone (Invega Sustenna), paliperidone palmitate (Invega Trinza), quetiapine (Seroquel), risperidone (Risperdal), olanzapine (Zyprexa), và ziprasidone (Geodon). Một thuốc chống loạn thần không điển hình, iloperidone (Fanapt), đã được FDA chấp thuận cho điều trị cấp tính (nhưng không dùng lâu dài) tâm thần phân liệt. Việc sử dụng của tất cả các loại thuốc này đã được phép điều trị thành công và đưa nhiều người bị tâm thần phân liệt trở lại nhà của họ và cộng đồng.

Mặc dù hiệu quả hơn và dung nạp tốt hơn an thần kinh cổ điển thông thường, đôi khi thuốc chống loạn thần không điển hình cũng có tác dụng phụ, và thực hành y khoa hiện nay đang phát triển những cách tốt hơn để hiểu những hiệu ứng, xác định những người có nguy cơ và quản lý các biến chứng. Quan trọng hơn, tất cả các thuốc chống loạn thần không điển hình mang theo nguy cơ có thể gây ra tăng cân và tăng lượng đường trong máu, cholesterol, và triglyceride, cần phải được theo dõi định kỳ trong quá trình điều trị. Một số thuốc chống loạn thần - điển hình và không điển hình - có thể gây ra vấn đề về nhịp tim có thể yêu cầu giám sát của bác sĩ.

Hầu hết các loại thuốc này cần 2-4 tuần để có hiệu lực. Kiên nhẫn là cần thiết nếu liều dùng cần điều chỉnh, thay đổi các loại thuốc đặc hiệu, và kết hợp thêm thuốc khác. Để có thể xác định liệu một thuốc chống loạn thần có hiệu quả hay không, vậy cần cố gắng để ít nhất bốn tuần (hoặc thậm chí là dài vài tháng trong trường hợp của clozapine).

Bệnh nhân được điều trị thành công với Invega Sustenna (thuốc có tác dụng cả tháng) trong 4 tháng sau đó có thể được điều trị bằng Invega Trinza. Invega Trinza là thuốc chống loạn thần đầu tiên và duy nhất có thể được dùng chỉ bốn lần một năm.

Nguy cơ tái phát của bệnh là cao hơn khi các loại thuốc chống loạn thần được dùng hoặc ngưng đột xuất, điều quan trọng là những người bị tâm thần phân liệt tuân thủ một kế hoạch điều trị phát triển hợp tác với bác sĩ và với gia đình của họ. Kế hoạch điều trị sẽ liên quan đến dùng thuốc theo kê đơn với số lượng chính xác và đúng thời gian, đồng thời đề nghị, tham dự các cuộc hẹn tái khám tiếp theo, và thực hiện các hướng dẫn điều trị khác.

Bài của Jennifer Robinson, MD vào 16 tháng 8 2015

© 2015 WebMD, LLC.

Lược dịch: Nguyễn Đăng Nguyên

Các tin khác
Xem tin theo ngày  

Thống kê truy cập
Truy câp tổng 1.719.053
Truy câp hiện tại 199