I. Nghiện rượu.
1. Khái niệm:
Nghiện rượu đã được nghiên cứu từ giữa thế kỷ thứ 19 và cho tới nay vẫn còn là vấn đề thời sự, vì số người nghiện rượu ngày càng gia tăng: ở Pháp các bệnh lý tâm thần do rượu chiếm 22% số bệnh nhân nội trú tại bệnh viện tâm thần (J. Ades 1990). Tại Bungaria các bệnh nhân loạn thần do rượu chiếm 20% số giường bệnh tâm thần (T.S Tancuchev 1988). Ở Mỹ, khoảng 50% người dùng bia rượu thường xuyên và 30% có các vấn đề liên quan đến rượu như sử dụng rượu khi lái xe, bỏ học, mất việc do rượu.
Nghiện rượu là một bệnh mãn tính, do nhu cầu uống rượu không được thoả mãn một cách thường xuyên, gây thèm rượu bắt buộc làm ảnh hưởng đến hiệu suất công tác, đến sức khoẻ tâm thần và thể chất, làm tổn thương đến các mối quan hệ gia đình và đời sống xã hội.
Các rối loạn liên quan đến rượu thực sự là mối quan tâm của Tổ chức Y Tế Thế Giới. Nó đứng hàng thứ 3 sau bệnh tim mạch và ung thư.
Ở nước ta trước đây các bệnh lý tâm thần do rượu rất hiếm, các công trình nghiên cứu về lạm dụng rượu, nghiện rượu cũng còn ít. Trong những năm gần đây ngày càng xuất hiện nhiều trường hợp loạn thần do rượu phải vào điều trị tại các cơ sở bệnh viện tâm thần ở các tỉnh, thành phố và Viện Sức khỏe Tâm thần. Bệnh lý do rượu đã chiếm một tỷ lệ đáng kể. Trước đây chỉ chiếm 0,31% số bệnh nhân nằm viện 1990; thì 1994 các bệnh lý tâm thần do rượu đã lên tới 6,99%, tăng gấp hơn 22 lần (Võ Văn Bản, Trần Viết Nghị 1994).
Nghiện rượu trong nhân dân từ 1,16 - 3,96 theo điều tra cơ bản tại một số địa phương 1994.
2. Tác dụng của rượu đối với cơ thể:
2.1. Sự hấp thu và bài tiết rượu:
Mức độ hấp thụ của rượu tùy thuộc vào loại rượu, lượng uống rượu nhiều hay ít, lượng thức ăn đi kèm khi uống, thể trạng của người uống, tâm trạng khi uống...
Rượu được hấp thu nhanh khoảng 20% số lượng rượu được vào cơ thể ngay qua dạ dày, số còn lại được hấp thu qua ruột. Cơ thể thường có phản ứng tự bảo vệ khi nồng độ rượu đưa vào quá cao, niêm mạc của dạ dày sẽ bị kích thích tiết ra chất nhày làm giảm bớt sự hấp thu, cùng lúc đó môn vị co thắt ngăn rượu không xuống ruột, làm cho người uống buồn nôn và nôn rượu ra ngoài. Thức ăn chất đạm và chất béo làm chậm sự hấp thu của rượu, trái lại nước uống sẽ làm tăng sự hấp thu của rượu, vào máu rượu được phân phối khắp cơ thể.
Nhiễm độc rượu là khi nào nồng độ rượu trong máu trên 0,15% thể tích
Khoảng 10% số lượng rượu đào thải ra ngoài bằng đường hô hấp, phần lớn được khử ở gan và đào thải qua nước tiểu.
2.2. Rượu đối với não:
Rượu không phải là một chất kích thích mà là một chất làm suy giảm cả hai quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh trung ương. Nhưng rượu làm mất ức chế mạnh hơn gây nên quá trình hưng phấn giả và vì vậy người uống rượu cảm thấy hưng phấn, đỡ lo âu, sợ hãi, hoạt động nhiều, nói nhiều, khả năng tự kiềm chế bản thân suy giảm nên lời nói thiếu tế nhị, xuồng xã, xàm xỡ, cử chỉ hoạt động thiếu chính xác.
Khi nồng độ rượu trong máu là 0,3% thì vận động và tư duy, tri giác đều bị rối loạn. Khi nồng độ rượu lên tới 0,4% - 0,5% thì cả hai quá trình hưng phấn và ức chế đều bị suy giảm, người uống rượu bị bất tỉnh, hôn mê và khi nồng độ rượu lên đến 0,6% - 0,7% thì người uống rượu có thể tử vong.
2.3. Rượu ảnh hưởng đến các cơ quan khác:
- Tác dụng lên tuyến yên, gây nên rối loạn sự tăng trưởng, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chuyển hóa nước và muối khoáng.
- Gây viêm dạ dày, viêm tụy cấp, mãn tính.
- Tác hại đối với gan, gây xơ gan, thoái hóa mỡ gan.
- Các bệnh mạch máu,tim mạch, tăng lắng đọng choleterol ở mạch máu và ở tim gây xơ mỡ động mạch.
3. Định nghĩa về nghiện rượu:
+ Về mặt số lượng: Nghiện rượu là sử dụng quá 1ml cồn tuyệt đối cho 1kg cân nặng hoặc 0,75 lít rượu vang 10o cồn trong vòng 24 giờ cho một người đàn ông cân năng 70kg (P. Hardy,1994).
+ Về mặt xã hội: Nghiện rượu là tất cả các hình thái uống rượu vượt quá mức sử dụng thông thường và truyền thống (P.Hardy,1994).
+ Theo Tổ chức Y tế thế giới (1993): Nghiện rượu là nhu cầu thèm muốn đòi hỏi thường xuyên đồ uống có cồn, hình thành thói quen, rối loạn nhân cách, giảm khả năng lao động và ảnh hưởng đến sức khoẻ.
4. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu (ICD-10):
+ Thèm muốn mãnh liệt không thể ngăn cản và bắt buộc phải uống rượu.
+ Giảm hoặc ngừng uống rượu là một việc rất khó khăn.
+ Có những chứng cứ về khả năng dung nạp rượu như tăng liều.
+ Dần dần sao nhãng những thú vui trước đây vốn ưa thích.
+ Vẫn tiếp tục uống rượu, mặc dù biết những hậu quả tai hại của nó.
Chú ý: chỉ được chẩn đoán nghiện rượu khi có từ 3 triệu chứng trở lên và biểu hiện trong vòng 1 năm trở lại đây.
5. Lâm sàng nghiện rượu.
Gồm 3 giai đoạn:
5.1. Giai đoạn 1 (Giai đoạn suy nhược thần kinh):
Một trong những dấu hiệu sớm nhất của giai đoạn này là say rượu bệnh lý, sự ám ảnh thường xuyên về rượu và sau đó là mất sự kiểm soát về số lượng rượu uống. Triệu chứng đầu tiên của nghiện rượu là mất phản xạ nôn khi uống quá mức, tăng khả năng dung nạp rượu đến mức tối đa cho phép, thay đổi tính nết rõ rệt, có biểu hiện rối loạn trí nhớ và chú ý, người bệnh trở lên độc ác, hay quấy nhiễu, dễ nổi khùng và đa nghi. Các triệu chứng này xuất hiện trên nền của trạng thái suy nhược thần kinh như: uể oải, đuối sức, mệt mỏi, đau đầu, mất ngủ,,,, làm giảm khả năng lao động và hiệu suất công tác.
Bệnh nhân luôn luôn thèm rượu và tìm mọi cách để đạt được mục đích của mình. Nhu cầu hàng ngày để thoả mãn trạng thái thèm rượu thường là 400 – 500ml rượu mạnh (35o - 40o cồn) và có thể còn hơn. Ngoài ra, bệnh nhân còn có các rối loạn cơ thể như: cao huyết áp, viêm gan, viêm tuỵ, viêm dạ dày, viêm thực quản, viêm đại tràng và giai đoạn này thường kéo dài 1 - 6 năm, tuỳ thuộc vào cường độ uống rượu của người bệnh.
5.2. Giai đoạn 2: (giai đoạn có hội chứng cai):
+ Tình trạng sảng rượu ngày càng ra tăng, bệnh nhân không còn đủ nghị lực để đấu tranh với cơn thèm rượu. Các triệu chứng ở giai đọan một tiến triển trầm trọng thêm. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là hội chứng cai xảy ra khi bệnh nhân ngưng uống rượu vài giờ hoặc vài ngày thì xuất hiện ngay các triệu chứng rối loạn tâm thần và thần kinh thực vật đa dạng ( nếu bệnh nhân được uống một lượng rượu nhỏ thì các triệu chứng này giảm hoặc mất đi nhanh chóng).
+ Rối loạn tâm thần: trên nền khí sắc giảm xuất hiện các trạng thái buồn rầu, dễ bực tức, giận dữ, độc ác, đa nghi. Bệnh nhân cảm thấy sợ hãi vô duyên cớ và có các ý tưởng tự buộc tội mình, có thể có ảo thị và ảo thanh thật, giấc ngủ của bệnh nhân không sâu hoặc mất ngủ và có nhiều ác mộng. Bệnh nhân biến đổi nhân cách trầm trọng, lối sống bê tha và thường có hành vi hung bạo.
+ Rối loạn thần kinh thực vật: biểu hiện bằng nhịp tim nhanh trên 100 lần/phút, tăng huyết áp, run đầu chi, khô miệng, chóng mặt, buồn nôn, nôn, tăng tiết mồ hôi và có thể xuất hiện các cơn co giật kiểu động kinh.
+ Khả năng dung nạp rượu tăng đến cực điểm, mỗi ngày bệnh nhân có thể uống với số lượng từ 1500 -2000ml rượu mạnh (35 -40o cồn), hoặc hơn, suốt ngày bệnh nhân trong trạng thái say và giai đoạn này kéo dài từ 3 – 5 năm.
5.3. Giai đoạn 3 (giai đoạn bệnh não thực tổn do rượu):
Các triệu chứng ở giai đoạn 2 biến đổi từ từ nặng dần lên và xuất hiện thêm các triệu chứng mới như: thèm rượu có khuynh hướng giảm, bệnh nhân bớt lè nhè và ít quấy nhiễu hơn trước. Khả năng dung nạp rượu rất kém, trạng thái say xảy ra với lượng rượu nhỏ hơn giai đoạn 1 và 2. Trong giai đoạn này bệnh nhân chỉ uống mỗi lần khoảng 150 - 200ml rượu mạnh (35 - 40o cồn) là say và thời gian say kéo dài, hội chứng cai cũng dài hơn trước, những rối loạn thần kinh vận mạch và rối loạn cơ thể cũng nặng nề hơn trước, những rối loạn thần kinh vận mạch và rối loạn cơ thể cũng nặng nề hơn giai đoạn 1 và 2.
Giai đoạn bệnh não thực tổn do rượu có đặc điểm uống một lượng nhỏ nhưng uống nhiều lần trong ngày. Khi bệnh nhân tiếp tục uống rượu thì khả năng dung nạp rượu càng giảm do các rối loạn chức năng của nhiều cơ quan trong cơ thể ngày càng trầm trọng và nhân cách của bệnh nhân suy đồi, bất chấp sự lên án của gia đình và xã hội, mọi suy nghĩ chỉ tập trung vào rượu. Các rối loạn tâm thần cũng ngày càng sâu sắc như hoang tưởng ghen tuông, chống đối xã hội, hành vi thô bạo và hay nổi khùng. Đôi khi bệnh nhân có rối loạn trầm cảm, trí nhớ và chú ý giảm sút đáng kể, mất dần khả năng học tập và lao động vốn có.
6. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai rượu theo DSM IV (1994):
A. Ngừng hoặc giảm uống rượu khi đang uống liều cao và kéo dài.
B. Có ít nhất là 2 dấu hiệu dưới đây xảy ra sau tiêu chuẩn A vài giờ đến vài ngày:
+ Tăng hoạt động tự động nhịp tim (nhịp tim > 100 lần/phút, mồ hôi ra rất nhiều).
+ Run tay.
+ Mất ngủ.
+ Buồn nôn hoặc nôn.
+ Ảo thị, ảo thanh và ảo khứu hoặc hoang tưởng.
+ Kích động tâm thần vận động.
+ Có trạng thái lo âu.
+ Có cơn co giật kiểu ĐK cơn lớn.
C. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn B gây ra trạng thái nguy kịch hoặc suy giảm các chức năng nghề nghiệp và xã hội.
D. Các triệu chứng này không do một bệnh lí thực tổn và một bệnh rối loạn tâm thần nào khác gây ra.
7. Say rượu bệnh lí:
7.1. Đặc điểm lâm sàng:
Say rượu bệnh lí là các rối loạn tâm thần cấp tính xảy ra do uống rượu trong một khoảng thời gian ngắn không chỉ với một lượng rượu lớn mà cả khi chỉ uống một lượng rượu nhỏ. Đặc điểm chủ yếu của trạng thái này là rối loạn ý thức và ngôn ngữ, khác với say rượu thông thường chủ yếu chỉ là rối loạn ngôn ngữ và trạng thái choáng váng. Say rượu bệnh lí, người bệnh thường có hành vi nguy hiểm cho gia đình và xã hội, trạng thái này bắt đầu và kết thúc đột ngột hoặc bằng một giấc ngủ sâu và không nhớ những gì đã xảy ra.
7.2. Tiêu chuẩn chấn đoán say rượu bệnh lý theo DMS IV (1994):
A. Gần đây có sử dụng rượu.
B. Những thay đổi tâm lý và hành vi diễn ra trong một thời gian ngắn sau khi uống rượu như: hành vi tình dục không thích hợp, dễ thay đổi cảm xúc, khả năng suy đoán giảm và giảm các chức năng nghề nghiệp và xã hội.
C. Một hoặc nhiều các dấu hiệu dưới đây xảy ra trong khi uống rượu:
+ Nói lè nhè.
+ Mất phối hợp vận động.
+ Dáng đi loạng choạng.
+ Rung giật nhãn cầu.
+ Giảm chú ý và trí nhớ.
+ Bất tỉnh hoặc hôn mê.
D. Các triệu chứng này không do một bệnh thực tổn nào hoặc một rối loạn tâm thần nào khác gây ra.
8. Một số yếu tố thuận lợi cho nghiện rượu:
8.1. Yếu tố về tuổi:
Thông thường tỉ lệ sử dụng rượu nhiều nhất là từ 20 - 35 tuổi, nhưng sử dụng rượu cao nhất là ở lứa tuổi 35 trở lên.
8.2. Yếu tố di truyền:
Con của những cặp vợ chồng nghiện rượu có nguy cơ nghiện rượu cao gấp 2 lần so với những cặp vợ chồng không nghiện rượu.
Có sự khác biệt về chủng tộc và văn hóa trong khả năng dung nạp rượu. Như nhiều người châu Á thường có các triệu chứng nhiễm độc rượu cấp như đỏ mặt, chóng mặt và nhức đầu chỉ sau khi uống một lượng nhỏ rượu. Một vài nhóm cộng đồng văn hóa như người Do Thái, các người theo đạo Tin lành và một số người châu Á có tỷ lệ lệ thuộc rượu thấp, trong khi một số nhóm khác như người Mỹ bản địa, người Eskimos và một số nhóm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có tỷ lệ cao hơn.
Các chứng cứ này cho thấy có sự tham gia của yếu tố di truyền nhưng bản chất vẫn chưa được hiểu rõ.
8.3. Nghề nghiệp:
Nghiện rượu thường gặp ở một nhóm nghề nghiệp như: thủ trưởng cơ quan, người lao động giản đơn, công nhân nhà máy rượu, bia hoặc những người bán hàng giải khát hoặc thuỷ thủ, nhà báo, bác sĩ và thất nghiệp đều là nhóm người có nguy cơ nghiện rượu cao.
8.4. Trình độ văn hóa:
Nghiện rượu gặp ở mọi tầng lớp xã hội từ người có trình độ tiểu học, trung học đến người có trình độ đại học.
8.5. Hôn nhân:
Người nghiện rượu có nhiều vấn đề với hôn nhân. Mâu thuẫn gia đình là khó tránh khỏi, tỉ lệ li hôn ở những người nghiện rượu cao do có hành vi bạo lưc trong gia đình.
9. Ảnh hưởng của rượu đối với cơ thể:
9.1. Mức độ nhẹ:
Say rượu mức độ nhẹ thấy ngưỡng cảm giác giảm, rối loạn chú ý, phản xạ chậm, khả năng phê phán giảm và nhận thức khó khăn, khí sắc tăng, dễ bị kích động, hay nổi khùng và rất hung bạo. Các triệu chứng trên thường phối hợp với rối loạn vận động và ngôn ngữ.
9.2. Mức độ trung bình:
Ở mức độ này, rối loạn chú ý nặng hơn, bệnh nhân hay đãng trí, tri giác thiếu chính xác và có tri giác sai thực tại, hoạt động trí tuệ chậm và tư duy lai nhai và rối loạn phối hợp vận động làm cho bệnh nhân đi loạng choạng. Nổi bật nhất là hành vi bạo lực, thường gây gổ, đánh nhau.
9.3. Mức độ nặng:
Say rượu mức độ nặng biểu hiện bằng trạng thái choáng váng ngày càng tăng và những giấc ngủ sâu kéo dài hơn. Trong nhiễm độc rượu nặng có thể có trạng thái bán hôn mê và hôn mê kèm theo những rối loạn cơ thể nặng. Lượng rượu trong máu khác nhau. Mức độ nhẹ 2%, mức độ trung bình 2 - 5%, mức độ nặng trên 5%. Tính theo cân nặng lượng rượu sử dụng mức độ nhẹ là 1 - 1,5ml/kg, mức độ vừa 1,5 - 2,5ml/kg và mức độ nặng 2,5 - 3,5ml/kg.
10. Điều trị nghiện rượu:
10.1. Nguyên tắc điều trị:
+ Sử dụng kết hợp giữa liệu pháp tâm lý và hoàn cảnh môi trường.
+ Sử dụng các liệu pháp y học tổng hợp.
+ Các phương pháp cai nghiện rượu bằng thuốc.
+ Điều trị chống tái phát.
+ Điều trị các rối loạn cơ thể khác.
10.2. Điều trị hội chứng cai rượu:
+ Tíêp nhận bệnh nhân tự nguyện hoặc cưỡng bức theo yêu cầu và điều trị nội trú tại các cơ sở y tế.
+ Cắt hội chứng cai rượu bằng thuốc benzodiazepin hoặc carbamazepin.
Có thể dùng một trong các phác đồ sau:
Phác đồ 1: Seduxen tiêm bắp ngày 2 ống sáng và tối, dùng từ 5 – 7 ngày.
Phác đồ này đơn giản, dễ thực hiện và cho hiệu quả cao. Thuốc dạng tiêm nên có thể dùng cả cho bệnh nhân ý thức còn sáng sủa, hợp tác điều trị và bệnh nhân đã có rối loạn ý thức, không hợp tác điều trị. Thuốc nên được sử dụng cho bệnh nhân càng sớm càng tốt. Việc dùng thuốc sớm sẽ giúp làm nhẹ bớt hội chứng cai ở bệnh nhân, ngăn chặn sảng rượu xuất hiện. Vì thế, có thể dùng thuốc ngay mà không cần đợi đến khi có kết quả xét nghiệm sinh hóa và huyết học.
Trong các trường hợp bệnh nhân có kích động dữ dội, run và rối loạn ý thức, rối loạn thần kinh thực vật (mồ hôi ra như tắm) nhiều, hoặc bệnh nhân có các cơn co giật kiểu động kinh thì có thể dùng tới 4 ống seduxen/ngày. Các trường hợp bệnh nhân xơ gan hoặc viêm gan nặng vẫn có thể dùng seduxen, tuy nhiên không nên vượt quá 20 mg/ngày.
Phác đồ 2: rivotril 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Rivotril có hiệu quả điều trị cai rượu rất tốt. Tuy nhiên, thuốc chỉ có dạng uống nên chỉ có thể dùng cho bệnh nhân ý thức còn sáng sủa, hợp tác điều trị và chịu uống thuốc. Vì vậy phác đồ này chỉ dùng cho bệnh nhân chưa có hội chứng cai (chưa ngừng uống rượu), hoặc hội chứng cai nhẹ.
Phác đồ 3: lexomil 4 viên/ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Hiệu quả cai nghiện rượu của lexomil tương đối tốt. Tuy nhiên, cũng như rivotril, thuốc chỉ có dạng viên, chỉ dùng cho các bệnh nhân đến sớm, chưa có hội chứng cai hoặc bệnh nhân có hội chứng cai nhẹ.
Phác đồ 4: carbamazepin 4 viên/ ngày: uống sáng 2 viên, tối 2 viên, dùng 5 – 7 ngày. Carbamazepin có hiệu quả cai rượu tương đương với benzodiazepin dạng uống (rivotril, lexomil…). Carbamazepin ít được sử dụng trong lâm sàng tâm thần để điều trị cho bệnh nhân nghiện rượu. Lý do là carbamazepin có thể gây dị ứng chậm. Dị ứng thường xuất hiện sau 10 – 15 ngày dùng thuốc nên thường là dị ứng nặng.
10.3. Điều trị chống tái phát:
Disulfiram (antabus, esperal): là chất gây ức chế chuyển hoá rượu thành CO2 và H20 tạo ra năng lượng và sản phẩm chuyển hóa rượu dở dang là aldehyl etlylic (etanol). Chất này gây ra nhiều phản ứng khó chịu cho bệnh nhân như đau đầu, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực, hoảng sợ và cảm giác sợ chết. Vì vậy, bệnh nhân sợ uống rượu.
Cách dùng: uống disulfiram 150 – 250mg/ngày vào các buổi sáng và cấm bệnh nhân uống rượu dưới mọi hình thức. Thuốc uống kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm và có thể thay thế disulfiram bằng metronidazol (klion), kết quả không tốt bằng, nhưng ít tác dụng phụ, rẻ tiền và dễ mua hơn. Cách dùng metronidazol 0,25 uống ngày 4 – 6 viên, chia làm 2 lần (sáng, tối) và cũng uống kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm.
10.4. Điều trị các rối loạn cơ thể khác:
+ Cần điều trị hợp lí các bệnh cơ thể do rượu như: viêm gan, xơ gan do rượu, viêm dạ dày, cao huyết áp, bệnh tim do rượu…
+ Cần phải sử dụng vitamin nhóm B như: vitamin B1, B6, B12 đặc biệt là vitamin B1 liều cao ngay từ đầu để khắc phục tình trạng thiếu vitamin B1 mạn tính và trầm trọng ở người nghiện rượu.
11. Phòng ngừa nghiện rượu như thế nào:
Truyền thông rộng rãi trong nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng những tác hại của rượu đối với sức khỏe tâm thần cũng như thể chất. Đặc biệt rượu làm hủy hoại nhân cách người nghiện, tha hóa đạo đức, sa sút tâm thần, không còn khả năng làm việc, là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Cần có quy chế quản lý, kiểm soát chặc chẽ trong việc sản xuất, bán mua và tiêu thụ các loại rượu, thức uống có rượu. Cần thiết ban hành đạo luật cấm trẻ em dướiv18 tuổi uống các thức uống có rượu.
Để dự phòng tái nghiện, bệnh nhân phải được điều trị bằng thuốc kháng rượu. Nếu sử dụng đúng chỉ định và đủ thời gian, tỷ lệ thành công có thể lên tới 90%.
- Disulfiram (esperal) là thuốc hiệu quả nhất. Nếu bệnh nhân uống rượu khi đang dùng thuốc thì sẽ có rất nhiều triệu chứng khó chịu như đau đầu dữ dội, chóng mặt, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực dữ dội, hoảng sợ vô cùng mạnh mẽ, sợ chết… Hiện tượng này lặp đi, lặp lại khi bệnh nhân uống rượu, từ đó khiến bệnh nhân hình thành phản xạ sợ rượu.
Cách dùng: Disulfiram uống mỗi sáng 1/2 viên. Thời gian uống thuốc tối thiểu là 24 tháng. Chỉ được dùng disulfiram khi đã ngừng rượu tuyệt đối ít nhất 24 giờ.
Có thể thay thế disulfiram bằng metronidazol. Cách dùng như sau:
- Metronidazol sáng 2 – 3 viên, tối 2 – 3 viên. Thời gian dùng thuốc 18 – 24 tháng. Hiệu quả của metronidazol chỉ là 60 – 70% số trường hợp. Nhiều bệnh nhân uống metronidazol nhưng vẫn có thể uống rượu được.
- Naltrexon là thuốc kháng opioid, dùng để điều trị củng cố cho bệnh nhân nghiện ma túy nhóm opioid như morphin, heroin… Thuốc cho kết quả tốt trong điều trị chống tái nghiện rượu. Cách dùng: Naltrexone (natrex, revia) 1 viên/ngày, uống buổi sáng.
Thời gian uống thuốc để điều trị chống tái nghiện rượu là trên 2 năm (chống tái nghiện ma túy là trên 6 năm).
Nói chung, để điều trị chống tái nghiện rượu thành công, phải được bảo đảm bệnh nhân uống thuốc thực sự. Người nhà bệnh nhân (bố, mẹ hoặc vợ) phải trực tiếp cho bệnh nhân uống thuốc hàng ngày.
II. Rối loạn tâm thần do rượu.
1. Khái niệm:
Thuật ngữ rối loạn tâm thần do rượu được xác định bởi loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác dụng trực tiếp của rượu lên não. Loạn thần phát triển chủ yếu do nhiễm độc rượu lâu dài gây tổn thương các cơ quan nội tạng và rối loạn chuyển hoá trong cơ thể. Loạn thần xuất hiện không những do ngộ độc rượu khi nồng độ rượu cao trong cơ thể mà ngay cả khi lượng rượu trong máu không có hoặc có rất thấp (Wictor M., 1953).
Về lâm sàng loạn thần do rượu có thể chia ra: sảng rượu, ảo giác do rượu, hoang tưởng do rượu, hội chứng Korsakov do rượu, bệnh não do rượu ...(Sumski N. G., 1963).
Về tiến triển người ta phân chia rối loạn tâm thần do rươụ thành 3 loại khác nhau: loại tiến triển tạm thời và không thường xuyên, loại tái phát nhiều lần và loại tiến triển mạn tính.
Các rối loạn tâm thần có tổn thương não do rượu bao gồm:
- Bệnh loạn tâm thần Korsakov.
- Bệnh giả liệt do rượu.
- Bệnh não thực tổn Gayet-Wernicke.
2. Sảng rượu:
Sảng rượu là một bệnh loạn thần cấp tính do rượu xuất hiện ở những bệnh nhân nghiện rượu mãn tính sau khi ngừng uống rượu. Sảng rượu được coi là một cấp cứu tâm thần, nếu không được điều trị tỉ lệ tử vong là 20% chủ yếu do các bệnh lí cơ thể như viêm phổi, suy thận, suy gan, suy tim,…
2.1. Biểu hiện lâm sàng:
Sảng rượu thường xảy ra ở giai đoạn 2 của bệnh nhân nghiện rượu mãn tính, ngừng uống rượu đột ngột từ 1 - 3 ngày. Khoảng 1/3 số trường hợp có hội chứng cai rượu sẽ tiến triển thành sảng rượu. Các triệu chứng của sảng rượu rất đa dạng và phong phú nhưng chủ yếu tập trung thành 3 nhóm:
+ Mất ngủ hoàn toàn kéo dài trong vài ngày, thậm chí hàng tuần.
+ Hội chứng Paranoid trong sảng rượu diễn ra rầm rộ. Bệnh nhân có hoang tưởng bị hại và có ảo thị: nhìn thấy các động vật nhỏ như chim, chuột, rơi, kiến,… hiếm hơn có các ảo thị ghê rợn khiến bệnh lo lắng, sợ hãi. Bệnh nhân cũng có thể có ảo thanh, tiếng nói rất rõ là tiếng nói của người nào đó, nội dung thường là đe doạ, chửi bới.
+ Rối loạn ý thức ở các mức độ khác nhau, bệnh nhân có thể có rối loạn định hướng không gian, thời gian và bản thân, tình trạng rối loạn ý thức có thể tăng lên dẫn đến trạng thái ý thức u ám và hôn mê. Rối loạn ý thức trong sảng rượu thường tăng lên về ban đêm hoặc về sáng sớm.
Ngoài ra còn có các rối loạn thần kinh thực vật như: run, giảm trương lực cơ, tăng phản xạ gân xương, xung huyết da, tăng tiết mồ hôi, tim đập nhanh, huyết áp động mạch dao động, có thể gặp cơn co giật kiểu động kinh và có hành vi tự sát. Các yếu tố bệnh cơ thể cũng biểu hiện rõ rệt như : nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, viêm tụy, viêm túi mật…
2.2. Điều trị:
Cần phải điều trị toàn diện cả những triệu chứng rối loạn tâm thần cũng như các bệnh lý cơ thể. Sử dụng seduxen đường tiêm ( tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch chậm), liều dùng seduxen 10mg x 1-3 ống / ngày.
Trong trường hợp bệnh nhân có triệu chứng hoang tưởng và ảo giác rầm rộ nên sử dụng thuốc an thần bằng đường tiêm haloperidol 5mg x 1-2 ống/ngày.
Cần phải bù nước điện giải cho bệnh nhân kịp thời và hợp lý bằng ringerlactat, glucoza 5%, natriclorua 0,9%, cần sử dụng vitamin nhóm B liều cao và duy trì hoạt động của tim mạch, đề phòng trụy tim mạch.
3. Ảo giác do rượu.
3.1. Đặc điểm lâm sàng:
Hình ảnh lâm sàng nổi bật của ảo giác do rượu là ảo thanh chiếm ưu thế. Nội dung của ảo thanh thường gặp là nhữnh lời đe doạ hoặc chửi rủa, sỉ nhục bệnh nhân trong khi ý thức không bị rối loạn, định hướng thời gian không gian, bản thân còn rõ ràng. Ảo giác chi phối hành vi của bệnh nhân, người bệnh mất khả năng phê phán với ảo giác. Ảo thanh do rượu có thể tiến triển cấp tính từ vài ngày đến một tháng hoặc bán cấp tính từ 1 – 3 tháng và mạn tính từ trên 3 tháng trở lên. Ảo thanh này rất nguy hiểm cho bệnh nhân và những người xung quanh như: tự sát, đập phá, đốt nhà, giết người. Đôi khi, có những hoang tưởng bị truy hại, hoang tưởng liên hệ nhưng không bền vững và nhất thời.
3.2. Điều trị:
Các bệnh nhân ảo giác do rượu có hành vi nguy hiểm cần phải điều trị nội trú tại các bệnh viện chuyên khoa tâm thần, phải ngừng sử dụng rượu, cai rượu bằng phương pháp giải độc từ từ và sử dụng vitamin nhóm B liều cao.
Điều trị bằng các thuốc an thần mạnh như: haloperidol, tisercin, olanzapin. Có thể dùng đường uống hoặc đường tiêm. Thời gian kéo dài cho đến khi hết ảo giác.
Phác đồ 1: Haloperidol và pipolphen. Trộn lẫn 2 loại thuốc này trong cùng một xi lanh (có thể thêm seduxen), tiêm bắp cho bệnh nhân sáng 1/2 liều, tối 1/2 liều. Dùng thuốc cho đến khi bệnh nhân hết hoang tưởng và ảo giác (thường là 5 – 7 ngày). Haloperidol có tác dụng chữa hoang tưởng và ảo giác do cai rượu, còn pipolphen có tác dụng ngăn ngừa tác dụng ngoại tháp do haloperidol gây ra. Phác đồ này có hiệu quả cao, tin cậy, nhưng haloperidol làm cho bệnh nhân run nhiều hơn, giảm ngưỡng co giật của bệnh nhân. Điều này không đáng ngại vì đã dùng kết hợp với seduxen hoặc các thuốc benzodiazepin khác.
Phác đồ 2: Olanzapin 1 viên/ngày, uống vào buổi tối. Olanzapin có ưu điểm chống loạn thần mạnh, nhưng không gây ra ngoại tháp, vì vậy không cần dùng kèm các thuốc chống ngoại tháp như trihex. Tuy nhiên phác đồ này chỉ áp dụng được cho bệnh nhân chịu uống thuốc.
Sử dụng vitamin B1 trong điều trị hội chứng cai rượu
Người nghiện rượu có tình trạng thiếu vitamin B1 mạn tính. Bệnh nhân có thể có viêm cơ tim cấp, viêm đa dây thần kinh và rất nhiều tổn thương khác do thiếu vitamin B1 gây ra. Trong điều trị hội chứng cai rượu, chúng ta bắt buộc phải cho vitamin B1 liều cao (trên 200 mg/ngày). Một số chế phẩm có chứa vitamin B1 thường dùng:
- Vitamin B1 0,025mg hoặc 0,1mg, tiêm bắp sáng và tối.
- Neurobion tiêm bắp sáng và tối. Đây là thuốc có chứa vitamin B1, vitamin B6, vitamin B12 do đó rất thuận lợi cho điều trị hội chứng cai rượu.
- Ancopir tiêm bắp sáng, tối. Thuốc này cũng chứa vitamin B1, vitamin B6 và vitamin B12 như neurobion.
- Vitamin B1, vitamin 3B, ancopir, neurobion… đều có dạng viên.
Bù nước và điện giải cho bệnh nhân có hội chứng cai rượu
Ringer lactat truyền tĩnh mạch chậm hoặc natri clorua 0,9% cũng truyền tĩnh mạch chậm.
Khi đã có xét nghiệm đường huyết cho thấy glucoza máu của bệnh nhân không cao thì ta có thể cho thêm các dung dịch huyết thanh ngọt như dextrose, glucoza. Tuy nhiên chỉ nên cho huyết thanh ngọt đẳng trương (dextrose 5%, glucoza 5%).
4. Hoang tưởng do rượu.
Hoang tưởng do rượu là một bệnh loạn thần, biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hội chứng paranoia, ảo giác paranoid với các hoang tưởng bị chi phối, ảo thanh và không có rối loạn ý thức.
4.1. Đặc điểm lâm sàng:
Hoang tưởng ghen tuông và hoang tưởng bị truy hại là những triệu chứng chủ yếu. Nội dung của hoang tưởng liên quan đến các sự vật có thật xung quanh bệnh nhân như: vợ, con, hàng xóm, đồng nghiệp và bạn bè. Người bệnh rất đa cảm, họ luôn hoảng sợ, hoang tưởng luôn cho phối hành vi và thường tấn công người khác. Đa số các hoang tưởng đi kèm theo ảo thanh, một số khác có ảo thị. Tiến triển của hoang tưởng chia làm 3 loại: hoang tưởng cấp tính thường kéo dài 3 - 4 tuần hoặc bán cấp tính kéo dài 2 - 3 tháng và mạn tính kéo dài trên 3 tháng đến hàng năm.
4.2. Điều trị:
Giống như điều trị ảo giác do rượu.
5. Các bệnh não thực tổn mạn tính do rượu:
5.1. Bệnh loạn thần Korsakov:
Bệnh loạn thần Korsakov là một trong những bệnh não thực tổn do rượu, biểu hiện chủ yếu bằng hội chứng mất trí nhớ và viêm đa dây thần kinh và xuất hiện vào giai đoạn cuối cùng của bệnh nghiện rượu. Bệnh nhân mất trí nhớ hoàn toàn, không thể tiếp nhận được các thông tin mới, khi trả lời câu hỏi bệnh nhân thường bịa ra những sự kiện thay thế cho khoảng trống trí nhớ (nhớ bịa). Người ta nhận thấy trong bệnh loạn thần Korsakov sự thiếu hụt vitamin nhóm B rất rõ nên sử dụng vitamin nhóm B liều cao tiêm bắp thịt hàng ngày từ 1g trở lên.
Có thể cho thêm piracetam 2 - 4 gam/ ngày và dùng kéo dài trên 3 tháng, thậm chí tới 1 năm.
5.2. Bệnh giả liệt do rượu:
Đây là loại bệnh não thực tổn mạn tính do rượu, hiếm gặp và rất nặng. Bệnh cảnh lâm sàng giống như bệnh liệt tuần tiến do giang mai. Nguyên nhân của bệnh chủ yếu là do thiếu vitamin nhóm B trầm trọng. Bệnh nhân có giảm chú ý, giảm trí nhớ, có hoang tưởng khuyếch đại, có tổn thương khu trú thần kinh (yếu đầu chi, khó nói và rối loạn phản xạ). Các rối loạn này cố định và tiến triển nặng dần lên mặc dù trạng thái nhiễm độc rượu đã hết và điều trị không có kết quả.
5.3. Bệnh não thực tổn Gayet – Wernicke:
Bệnh não thực tổn do rượu Gayet –Wernicke là một bệnh mạn tính, hiếm gặp, biểu hiện bằng trạng thái lú lẫn, hưng phấn ngôn ngữ, vận động, có cơn co giật kiểu động kinh, rối loạn trí nhớ kiểu Korsakov và các tổn thương khu trú thần kinh như: thất điều vận động, rối loạn ngoại tháp, rối loạn chức năng vận nhãn.
BSCKII. Ngô Đình Thư
Phó Giám đốc Bệnh viện Tâm thần Huế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Viết Nghị ( 2000), “ Loạn thần do rượu với hoang tưởng & ảo giác chiếm ưu thế “, Rối loạn tâm thần & hành vi do sử dụng các chất tác động tâm thần (Tập bài giảng dành cho sau đại học), Bộ môn tâm thần, Đại học y Hà nội, tr. 133- 141.
2. Nguyễn Viết Thiêm ( 2000), “ Lạm dụng rượu “, Rối loạn tâm thần & hành vi do sử dụng các chất tác động tâm thần (Tập bài giảng dành cho sau đại học) Bộ môn tâm thần, Đại học y Hà nội, tr. 103 – 111.
3. Howard H. Goldman ( 2000) Review of general psychiatry, p.263-283.
4. Kaplan H. I; Sadock B. J (1994), “Alcohol- Related Disorders “, Substance- Related Disorders, Synopsis of psychiatry, Bihavioral sciencs clinical psychiatry, Seventh edition, p. 396 – 410.
5. Michael H. Ebert, Peter T. Loosen, Barry Nurcombe (2000) Current diagnosis & treatment in psychiatry, p. 290-327.
6. Harold I. Kaplan, Benjamin J. Sadock (1998) Synopsis of psychiatry, p. 524-572.
7. Robert J. Waldinger (1997) Psychiatry for medical students, p. 101 – 125.